Người Trung Quốc cổ đại từng liệt "Ðuôi cá chép" vào một trong "bát trân" (8 cái quý) ngang với chân gấu. Nhà y học thời Hậu Lương - Ðào Hoàng Cảnh (Trung Quốc) đã gọi cá chép là "Chư ngư chi trưởng, vi thực phẩm thưởng vị" (Cá chép đứng đầu các loại cá, là loại thực phẩm đứng đầu vị).
Cá chép có vị ngọt, tính bình, không độc, có tác dụng hạ khí, lợi tiểu, an thai, tiêu thũng. Chữa ho đàm, hoàng đản, thủy thủng, cước khí, tiêu khát. Khí suy, biếng ăn, sợ lạnh, thở ngắn, mỏi mệt, tay chân lạnh, thì nên ăn cá chép chưng với nếp.
Nếu tiêu hóa kém, thì chưng cá chép với đậu đỏ , gừng và vỏ quýt. Bệnh thủy thũng(là loại bệnh do công năng bài tiết thủy dịch trong cơ thể mất bình thường, thủy dịch ứ đọng lại gây nên phù thũng cục bộ hoặc toàn thân. Chất nước ứ đọng trong cơ thể, tràn ra da, thớ thịt, làm cho mặt, mi mắt, chân tay, lưng bụng, thậm chí toàn thân phù) nên ăn canh cá chép nấu với bí đao, hành trắng.
Bệnh tiểu đường nên ăn cá chép nấu với đậu đỏ, thảo quả, trần bì(vỏ quýt khơi khô), hồ tiêu. Ho hen nên ăn cháo cá chép cạo sạch vảy, bỏ ruột bọc giấy nướng chín, bỏ xương. Rồi nấu cháo với gạo nếp.
Thai khí không phát triển thì ăn cháo cá chép nấu với táo tàu và muối.
Lưu ý: Lưng cá chép có 2 gân, khi ăn nên rút ra thì khỏi tanh và tránh chứng nặng tai.